Áp suất do khí quyển của Trái Đất tác dụng vào mọi vật đặt
trong khí quyển, gọi tắt là khí áp.
Vì khí áp ở một điểm được xác định bởi trọng lượng của cột không khí có chiều
cao bằng khoảng cách từ điểm ấy tới giới hạn trên của khí quyển, nên khí áp
giảm theo độ cao và thường được đo bằng chiều cao của cột thủy ngân trong khí áp kế thủy ngân. Ở mặt biển, khí áp
gần bằng 760 mm thủy ngân. Áp suất bằng 760 mm thủy ngân gọi là áp suất tiêu chuẩn.
Áp suất do khối chất lỏng (hay khí) đứng yên tác dụng vào
mỗi diện tích nguyên tố trong chất ấy, hoặc lên thành bình chứa. Áp suất tĩnh ở
một điểm chỉ phụ thuộc vị trí của điểm ấy chứ không phụ thuộc phương của diện
tích nguyên tố bao quanh điểm. Nó bằng trọng lượng của cột chất lỏng (khí) có
chiều cao bằng khoảng cách thẳng đứng từ điểm ấy đến mặt thoáng và có tiết diện
bằng một đơn vị điện tích. Nếu chất lỏng (khí) chuyển động thì có cả áp suất
tĩnh và áp suất động, trường hợp này
áp suất tĩnh là áp suất trên diện tích nguyên tố nằm song song với vận tốc chất
lỏng.
Khi truyền trong một môi trường, sóng âm gây ra sự nén và
giãn của môi trường, áp suất ở một điểm của môi trường dao động quanh vị trí
tĩnh (khi không có âm). Biên độ, hay chính xác hơn, giá trị hiệu dụng của các
dao động áp suất này gọi là áp suất âm ở điểm ấy. Cường độ của âm tỉ lệ với
bình phương của áp suất âm.
Trong áp suất của
chất lỏng chuyển động, áp suất động pđ – là phần áp suất mà chất
lỏng gây ra do nó có vận tốc v. Nếu r là khối lượng
riêng của chất lỏng thì:
Áp suất mà ánh sáng tác dụng lên vật được rọi sáng. Áp suất
này rất bé, cỡ mPa, nên mãi đến năm
1899, nhà vật lý học Nga Lêbêđep mới đo được bằng thí nghiệm tinh vi. Mặt phản
xạ hoàn toàn ánh sáng chịu áp suất gấp đôi mặt hấp thụ hoàn toàn ánh dáng. Áp
suất của ánh sáng mặt trời làm cho sao chổi bao giờ cũng hướng ngược về phía có
Mặt Trời.
Dụng cụ để đo áp suất chất lỏng và khí. Có nhiều loại áp
kế. Trong áp kế cột chất lỏng(H. 3),
áp suất phải đo được xác định bằng trọng lượng của một cột chất lỏng có đáy
bằng một đơn vị diện tích và chiều cao bằng độ chênh lệch mực chất lỏng trong
hai nhánh của ống thủy tinh.
Áp kế hộp gồm có một hộp kim loại kín đã rút hết không khí. Mặt hộp M
mỏng và có gợn để dễ biến dạng (H. 4); nó được giữ bằng lò xo L. Độ biến dạng
của mặt tỉ lệ với độ thay đổi áp suất ở ngoài hộp, là áp suất cần đo.
Hình
4
Áp kế dùng để đo áp
suất khí quyển gọi là khí áp kế.