Bán kính chính khúc R ở một điểm M của một đường cong là
bán kính của vòng tròn mật tiếp với
đường cong ở điểm ấy. Vòng tròn mật tiếp là giới hạn của vòng tròn đi qua 3
điểm N, M, P khi N và P tiến tới M (H. 7).
Nếu
đường cong là một vòng tròn thì ở mọi điểm, bán kính của nó chính là bán kính
chính khúc. Ở đoạn đường thẳng hoặc ở điểm uốn của đường cong, bán kính chính
khúc vô cùng lớn.
Nếu một vật rắn có
khối lượng m và mômen quán tính I đối với một trục nào đó thì bán kính quán
tính của vật đối với trụcấy là khoảng
cách l từ trục đến một chất điểm có cùng khối lượng m và mômen quán tính I: I =
m.l2.
Véctơ gốc là gốc tọa độ O và ngọn là điểm đang xét M gọi là
bán kính vectơ của điểm M. Các hình chiếu của bán kính vectơ xuống ba trục tọa
độ là các tọa độ của điểm M.
Bản trong suốt có hai mặt là mặt phẳng song song, cách nhau
một khoảng d, làm bằng chất có chiết suất khác với chiết suất của môi trường
trong đó ta đặt bản (H. 6). Nếu n là chiết suất tỉ đối của bản đối với môi
trường thì ảnh A’ của điểm A qua bản bị dịch chuyển một đoạn , gần bản hơn nếu n > 1.
Bản có độ dày rất nhỏ, cỡ bước sóng
ánh sáng. Các tia sáng phản xạ lên hai mặt của bản giao thoa với nhau, điều này
giải thích hiện tượng các màng xà phòng, các lớp dầu hỏa trên mặt nước… có màu
sắc cầu vồng.
Gồm có hai băng bằng kim loại khác nhau, có kích thước
bằng nhau và hàn với nhau theo suốt chiều dài (H. 8). Khi nhiệt độ tăng, vì có
hệ số nở khác nhau nên băng kép cong lại. Sự biến dạng này được ứng dụng để chế
tạo máy điều nhiệt, rơle nhiệt… (Bình thường băng kép A tựa vào vít B và có
dòng điện chạy, nếu nhiệt độ tăng quá mức đã định thì băng kép cong lên và ngắt
mạch, nhiệt độ giảm thì băng kép lại đóng mạch).
Băng nhựa có phủ một lớp chất sắt từ, dùng để ghi và phát
âm. Qua micrô, âm thanh được biến đổi thành dòng điện âm tần, dòng điện này làm
biến đổi từ trường của một nam châm điện (đầu từ). Băng từ đi sát vào rãnh của
nam châm sẽ bị từ hóa và như vậy âm được ghi dưới dạng từ. Sự từ hóa này giữ
được lâu và chỉ mất nếu bị xóa bởi một từ trường cao tần. Quá trình phát âm có
các khâu ngược với ghi âm. Hình 9 là sơ đồ đầu tư ghi âm. Đi ngang qua nam châm
1, băng từ 2 bị từ hóa; các vùng nhiễm từ tự phát (đômen) lúc chưa ghi âm sắp
xếp hỗn độn thì sắp xếp lại theo trật tự nhất định thể hiện âm cần ghi.
Nguyên tắc ghi âm
trên đây cũng được áp dụng để ghi cả âm và hình lên băng từ hình, thường gọi là
băng video. Vì có hai dải tần số khác
nhau (âm và hình) nên máy video khá phức tạp, có 2 hoặc 4 đầu từ gắn vào một
cái tang trống quay.
Bánh xe có khối lượng lớn lắp vào trục động cơ (tĩnh tại) để
điều hòa chuyển động quay của trục động cơ. Vì có quán tính lớn, vận tốc của
bánh đà thay đổi chậm, nó thu được động năng trong kỳ phát động và cung cấp
động năng trong các kỳ thụ động của động cơ, làm cho động cơ chạy đều. Động cơ
lắp trên các xe không cần có bánh đà vì bản thân xe đó có khối lượng lớn, đủ để
điều hòa chuyển động.